(giaidauscholar.com) - Cách đây 40 năm, tại Paris (Pháp), Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết, gọi tắt là Hiệp định Paris. Hiệp định Paris là một thắng lợi to lớn, thắng lợi của quá trình đấu tranh lâu dài trên bàn đàm phán cũng như trên chiến trường từ năm 1968 tới năm 1972 của nhân dân ta.
TT&VH trân trọng giới thiệu tới bạn đọc loạt bài nhân kỷ niệm sự kiện này.
Trước khi sang Pháp thực hiện bức tranh gốm kỷ niệm 40 năm Hiệp định Paris, họa sĩ Nguyễn Thu Thủy đã gặp gỡ và trò chuyện với bà Nguyễn Thị Bình, vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam - một trong bốn vị Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đã đặt bút ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam từ năm 1992 đến năm 2002.
* Thưa bà Nguyễn Thị Bình, trong gần 5 năm đàm phán để đi đến ký kết Hiệp định Paris, có sự kiện nào thể hiện rõ chiến lược “đối ngoại phối hợp với chiến trường” mà phái đoàn của ta đã phát huy sức mạnh ?
- Tháng 2/1971, Mỹ mở chiến dịch đường 9 Nam Lào nhằm cắt đứt liên lạc giữa Bắc-Nam, hòng bao vây cô lập quân giải phóng của chúng ta, nhưng chúng đã thất bại nặng nề. Khi chúng tôi từ Paris thông báo cho Stockholm, Rome, Montreal, New York về việc Mỹ mở rộng xâm lược đối với Lào, thì từ các nơi này, tin tức lập tức lan truyền đến các nước khác.
Các cuộc biểu tình, mít tinh liền nổ ra khắp nơi, lên án Mỹ, đòi Mỹ chấm dứt leo thang chiến tranh. Những ngày đó, cả hai đoàn Nam, Bắc chúng tôi rất bận rộn. Chúng tôi thực hiện chiến lược “Đối ngoại phối hợp với chiến trường”.
Hơn một tháng sau, quân Mỹ - Ngụy phải rút khỏi Nam Lào, tổn thất rất lớn về quân sự và cả chính trị.
* Thưa bà, bà có thể nêu một ví dụ nữa về việc phái đoàn của ta đã luôn phát huy sự ủng hộ của bạn bè quốc tế trong phong trào đoàn kết với Việt Nam?
- Giữa năm 1971, tôi về Hà Nội đúng những ngày lũ lụt lớn ở miền Bắc. Quân đội và nhân dân cố gắng giữ vững đê sông Hồng, phải phá cả đê bao Gia Lâm để nước không tràn vào Hà Nội.
Không quân Mỹ, thừa cơ hội này, dự định ném bom phá đê sông Hồng. Lúc đó, tại bàn Hội nghị cũng như trong nước, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lên tiếng tố cáo với thế giới âm mưu độc ác này của Mỹ. Chúng ta cũng đã mời nhiều đoàn quốc tế đến tận nơi chứng kiến kế hoạch tội ác của Mỹ. Chính trong dịp này nghệ sĩ Jane Fonda đã đến thăm Chính phủ Cách mạng Lâm thời ở Choisy le Roi, ăn cơm với tôi, rồi đến thăm Việt Nam, lên tiếng xác nhận là những đê bảo vệ đồng bằng sông Hồng không phải là hệ thống quân sự như Chính phủ Mỹ lừa dối dư luận. Một phong trào đấu tranh vạch tội ác của Mỹ lại rộ lên khắp nơi, cả tại Mỹ.
* Thưa bà, tinh thần và ý chí của các chiến sĩ ngoại giao trên bàn đàm phán đã đập cùng một nhịp với ý chí và tinh thần của nhân dân trong nước trong những ngày tháng cam go đó như thế nào?
- Từ đầu năm 1972, để đánh lừa dư luận Mỹ trước bầu cử rằng chính quyền Nixon đang sắp đạt được một giải pháp chính trị cho chiến tranh ở Việt Nam, tại Paris, phía Mỹ đồng ý cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi vào đàm phán “bí mật”. Cuộc đấu trí lịch sử giữa đồng chí Lê Đức Thọ và Kissinger bắt đầu. Đến lúc này, cả trên hai mặt trận quân sự và ngoại giao đều vào hồi quyết liệt.
Ở trong nước, chiến tranh lên đến đỉnh cao ở cả hai miền. Đường mòn Hồ Chí Minh bị bắn phá 24/24 giờ mỗi ngày. Các cảng ở miền Bắc bị thả thủy lôi bao vây. Tháng 3/1972, quân dân ta bắt đầu cuộc tiến công lớn ở Đông Nam bộ, Tây Nguyên và Quảng Trị - Thừa Thiên. Chiến dịch ở Quảng Trị kéo dài đến tháng 9/1972 là một trong những chiến dịch ác liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam. Ở Paris, chúng tôi từng giờ hướng về Quảng Trị, đặc biệt về cuộc chiến đấu ở Thành cổ nổi tiếng.