16/06/2025 18:00 GMT+7 | Văn hoá
Vừa qua, Sở Văn hóa và Thể thao TP.HCM, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Câu lạc bộ truyền thống kháng chiến văn công giải phóng đã phối hợp ra mắt sách Đoàn Văn công giải phóng R - Một dấu ấn lịch sử. Nhà thơ Lê Minh Quốc là người chấp bút cuốn sách này.
Tại buổi ra mắt sách này, nhiều văn nghệ sĩ của văn công giải phóng một thời đã có mặt để chia sẻ những ký ức đáng nhớ.
"Có một điều lạ lùng, Đoàn Văn công giải phóng không chỉ có lực lượng ca múa nhạc, mà còn có những nhạc sĩ như Phạm Minh Tuấn, Lư Nhất Vũ..., có đội ngũ cải lương miền Nam giải phóng" - Nhà thơ Lê Minh Quốc kể thêm - "Trong kháng chiến ban đầu cũng có nhiều người không đồng ý việc phát triển cải lương, bởi cho rằng ủy mị quá, không phù hợp với đấu tranh. Nhưng những nhà biên soạn đã chứng minh được rằng với những làn điệu cũ, chúng ta lồng vô nội dung mới, cải lương hoàn toàn có thể phục vụ cho kháng chiến. Chúng ta còn có cả múa rối, có tất cả các loại hình nghệ thuật khác…".
Cuốn sách “Đoàn Văn công giải phóng R - Một dấu ấn lịch sử” vừa phát hành. Ảnh: T.Hải
"Thật đáng ngạc nhiên, trong một hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt như thế, các nghệ sĩ vẫn có thể hình thành được một đời sống văn học, nghệ thuật phong phú" - nhà thơ Lê Minh Quốc nhận định.
Anh tâm sự, bây giờ, sức khỏe của các nghệ sĩ của đoàn văn công giải phóng khi xưa đã yếu, trí nhớ không còn minh mẫn, nên tôi không tái hiện được hết. Nhưng tôi thấy một điểm chung ở họ là lòng yêu nước vĩ đại, với điểm tựa lớn lao chính là Bác Hồ. Họ cùng nhau hướng về lãnh tụ để vượt qua chính họ, vượt qua những khốc liệt của cuộc sống để đi đến ngày chiến thắng.
Khi tôi nghe các anh các chị chia sẻ điều ấy, tôi mới ngộ ra một điều, ban đầu tôi tưởng rằng mình viết về họ, nhưng về sau mới nhận ra chính các cô chú anh chị đã dạy mình về một tình yêu thiêng liêng, tình yêu nước, yêu kính lãnh tụ.
Nhà thơ Lê Minh Quốc
Nghệ sĩ Phạm Minh Thu: "Chúng tôi hát như chim ríu rít…"
Tôi đến với văn công giải phóng trong một đợt tuyển bổ sung nghệ sĩ cho đoàn. Thực sự mà nói, trước khi đến, tôi gần như không biết gì về văn công. Nhưng lúc đó, với phong trào thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang, tất cả vì miền Nam thân yêu, nên chúng tôi đều sẵn sàng lên đường.
Tôi lại là cô bé mồ côi cha mẹ từ 2 tuổi, nên lúc bấy giờ tự thấy chẳng có điều gì níu kéo mình ở lại đất Lào Cai. Tôi được về Hà Nội sơ tán tránh máy bay và đã làm đơn tình nguyện vào chiến trường miền Nam, được khoác chiếc ba-lô, nhận quân trang, quân phục... để đi vào Trường Sơn.
Khi chúng tôi vào đến nơi, thật bất ngờ, đoàn không còn ở đó nữa, đoàn đã lên đường đi ra Bắc, chúng tôi không được gặp các anh các chị. Mãi đến sau này, hai năm sau ngày giải phóng, chúng tôi mới gặp được nhau.
Tôi còn nhớ bữa cơm đầu tiên khi đến với chiến khu, thật là ngon, vì suốt thời gian băng rừng Trường Sơn, chúng tôi chỉ ăn lương khô, uống nước suối mà thôi. Bữa ấy chúng tôi được ăn thịt trâu kho, sau bao tháng năm đói khổ, nên ngon vô cùng.
Nghệ sĩ Phạm Minh Thu
Chúng tôi nhận những căn nhà của các đồng chí ra Bắc để lại. Nhà vỏn vẹn chỉ có 6 cái cột để có thể mắc võng nằm, giữa là một căn hầm. Ở giữa rừng trống trải, bơ vơ không có đoàn, chúng tôi phải đi ghép với y tế, với kinh tài... không có ai là người phụ trách cả. Trong hoàn cảnh ấy buộc phải tự bươn chải, tự sống, tự lo và tự rèn luyện chuyên môn của mình. Lúc ấy có nhà văn Lê Văn Thảo, nhà văn Chí Hiếu... ở gần, các anh chị em đối với chúng tôi đầy ân tình.
Chúng tôi đi bộ băng rừng để biểu diễn cho bộ đội, khích lệ tinh thần anh em. Đến ngày 28/4/1975, tôi đến cầu Đồng Nai và sáp nhập với một số đơn vị khác. Vào ngày 30/4, tôi đã có mặt ở Sài Gòn, chứng kiến thời khắc lịch sử của đất nước.
Chúng tôi được chọn là người đi đầu đoàn vì biết ca những bài như Tiến về Sài Gòn, Giải phóng miền Nam, Xuân chiến khu... Chúng tôi hát như chim ríu rít, trong lòng sung sướng, rộn rã vô cùng. Tôi được đi cùng chú nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và hai cận vệ nữa, trên một chiếc xe Jeep mui trần. Đó là những kỷ niệm ý nghĩa, xúc động vô cùng đối với tôi.
Còn nhớ kỷ niệm lúc ở trong rừng, các chị chăm sóc, lo toan và chúng tôi cứ thế dựa vào nhau để sống. Các anh, các chị đã nuôi sống chúng tôi, giúp chúng tôi xốc lại tinh thần của những chiến sĩ trẻ từ miền Bắc xa xôi vào, thay gia đình ở phương xa để lo cho chúng tôi bằng tấm chân tình, để chúng tôi cứ thế trưởng thành và lớn lên trong hoàn cảnh khốn khó.
Hiện giờ ở nhà tôi vẫn còn lưu giữ một số kỷ vật chiến trường, trong đó có cây đèn pin của nhà văn Lê Văn Thảo tặng. Một cây đèn pin đã cũ, bé nhỏ, nhưng đến nay cũng như những kỷ vật chiến trường khác, đều trở thành vô giá đối với tôi, vì đã gắn bó với những năm tháng không bao giờ quên.
NSƯT Phi Yến: đã cùng nhau trưởng thành
Tôi luôn nhớ về điệu múa Người mẹ cầm súng (điệu múa nổi tiếng mà nghệ sĩ Phi Yến đã tạo dấu ấn trong chiến trường - PV), nó khó với tôi lắm, bởi vì trước đó chị Minh Nguyệt, chị Hồng Vân đã biểu diễn và các anh chị đã có thời gian tập luyện chuyên nghiệp suốt 7 năm từ miền Bắc vào.
Về kỹ thuật múa ballet, các chị rất giỏi, còn chúng tôi ở trong rừng vừa học vừa hành, còn chập chững. Nghệ sĩ nhân dân Việt Cường là người dạy tôi những động tác ballet đầu tiên. Ban đầu tôi không muốn nhận vở múa này, vì nghĩ, các chị đã múa đẹp, nhuần nhuyễn quá rồi, mình nhận cũng rất khó. Vậy nhưng, các anh, các chị trong đoàn động viên, được thì được, không được thì thôi!
NSƯT Phi Yến
Lúc bấy giờ, hai diễn viên múa nữ khác, một chị thì bị trẹo chân không thể múa, một chị thì bị sốt rét, tôi đành phải nhận. Tính tôi vốn không làm thì thôi, một khi đã làm thì phải cố gắng hết sức mình. Tôi tập ngày tập đêm cho vở múa. Đêm biểu diễn đầu tiên, ban đầu rất run, nhưng cho đến khi bốn câu thơ về người mẹ và nhạc nổi lên thì cảm xúc trỗi dậy khiến tôi cảm thấy rất sung. Tôi nhảy như bay ra sân khấu, có cảm giác mình như người mẹ bay qua khói lửa chiến tranh để tìm đứa con, nhưng chỉ còn lại những chiếc áo, nên người mẹ ấy ôm tấm áo trước ngực như ôm đứa con rứt ruột của mình.
Khi ấy, âm nhạc da diết nổi lên, đẩy cảm xúc lên cao trào. Đến bây giờ, sau hơn 50 năm, tôi vẫn nhớ như in khúc nhạc. Điệu múa ấy đã theo tôi trong suốt nhiều tháng năm kháng chiến, tạo nên dấu ấn của mình. Tôi biết ơn những anh chị em đã bên mình, đã cùng nhau sẻ chia trong những năm tháng khó khăn để cùng nhau trưởng thành. Nhìn lại, nếu như gian khổ mà không có niềm vui thì không thể nào vượt qua được.
Có một kỷ niệm sau này thành giai thoại: Lúc đó có một đội xung kích của văn công giải phóng đi xuyên rừng về nằm vùng ở Nhà Bè. Ở đó không đủ ăn, cũng không có đủ nước ngọt để sinh hoạt, vô cùng thiếu thốn. Ban ngày, các anh lớn dạy các em nhỏ học chữ, dạy hát ca, chiều tối có du kích chống xuồng đến rước các anh chị em đi diễn. Khuya về tất cả nằm ngủ chung trên một tấm ván. Lúc ấy để một em bé nhỏ nhất (tên là Kim Sìn) với một anh lớn tuổi nhất nằm gần nhau. Thế rồi, đêm tối, em Kim Sìn bị muỗi đốt, gãi hoài gãi hoài mà không đỡ ngứa. Sáng mai ra, anh nằm bên cạnh kêu: "Trời ơi, sao đầu gối tui trầy máu me không vậy nè". Em Kim Sìn thật thà kêu: "Chết rồi, vậy là đêm qua em gãi anh chứ không gãi em". Thế là mọi người cười đỏ cả mặt, vì cười cũng không dám cười to, nói cũng không dám nói to. Những chuyện như vậy cho mọi người niềm vui, sức khỏe, để cố gắng hoàn thành công tác của mình.
Một nhân chứng đã từng ở địa đạo Củ Chi, chị Hồng Cúc, kể một chi tiết rất quan trọng: Khi xung kích văn công giải phóng xé lẻ ra đi biểu diễn cho bà con trong vùng xôi đậu vở diễn Đâu có giặc là ta cứ đi. Sau những buổi diễn, những cán bộ ở đó đã nói rằng, các anh chị diễn vở kịch này còn hơn chúng tôi kêu gọi thanh niên tòng quân trong một tháng. Sau một đêm các anh chị biểu diễn mà thanh niên trong vùng ùn ùn đến đăng ký đi du kích.
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Đăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất