24/01/2013 19:08 GMT+7 | Thế giới
Nhân kỷ niệm 40 năm ngày ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973 – 27/1/2013), Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã có bài viết nhìn lại những ngày tháng lịch sử này:
Ngày 27/01/1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (gọi tắt là Hiệp định Paris) được ký kết, kết thúc thắng lợi Hội nghị Paris - cuộc đấu tranh ngoại giao lâu dài nhất, cam go nhất trong lịch sử của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
40 năm đã trôi qua, đất nước đã có nhiều đổi thay và đang bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế toàn diện, song ký ức về những ngày tháng gian lao mà oanh liệt cũng như những bài học sâu sắc của Hội nghị và Hiệp định Paris vẫn còn sáng mãi.
Kỷ niệm 40 năm ký kết Hiệp định Paris là dịp để chúng ta ôn lại chiến công hào hùng của dân tộc, noi theo tấm gương sáng của những thế hệ cha anh, tri ân bạn bè quốc tế và vận dụng sáng tạo các bài học lịch sử để triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại của Đảng trong thời kỳ mới.
Hội nghị được mở ra từ một quyết định chiến lược sáng suốt của Đảng ta trong bối cảnh tình hình hết sức khó khăn. Đầu năm 1965, chính quyền Johnson ồ ạt đưa quân vào miền Nam, leo thang chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân chống lại miền Bắc, đồng thời, mở rộng cuộc vận động "ngoại giao hòa bình" đòi miền Bắc rút quân khỏi miền Nam và "đàm phán không điều kiện với Mỹ"[1].
Quanh cảnh cuộc nói chuyện giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Hoa Kỳ về hòa bình tại Việt Nam tại Phòng họp Trung tâm Quốc tế tại Paris ngày 13/5/1968. Đoàn Việt Nam ngồi phía bên phải. Ảnh tư liệu - TTXVN
Chính vào lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, tháng 12/1965, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 12, trong đó chỉ rõ “đánh đến một lúc nào đó sẽ vừa đánh vừa đàm” nhưng nhận định “tình hình chưa chín muồi cho một giải pháp”[2] .
Đến tháng 1/1967, sau những thắng lợi vang dội của quân và dân hai miền Nam Bắc tạo thế cho ta, Nghị quyết Trung ương 13 đã quyết định mở mặt trận ngoại giao để tạo cục diện đánh đàm và kéo Mỹ xuống thang chiến tranh[3].
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, Johnson phải cam kết xuống thang chiến tranh, ta quyết định đi vào đàm phán với Mỹ.
Kéo dài ròng rã 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, trải qua 202 phiên họp công khai và 45 cuộc gặp riêng giữa Việt Nam và Mỹ, Hội nghị Paris là cuộc đấu trí, đấu bản lĩnh quyết liệt giữa nền ngoại giao non trẻ với nền ngoại giao lão luyện của một siêu cường hàng đầu thế giới.
Để đi đến thắng lợi cuối cùng là bản Hiệp định lịch sử ngày 27/01/1973, chúng ta đã kiên định đường lối, chiến lược mà Đảng đề ra, đồng thời chuẩn bị kỹ càng, hết sức chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ cả về bản lĩnh cách mạnh và kiến thức mọi mặt. Kế tục truyền thống đấu tranh ngoại giao của cha ông và trên cơ sở các bài học của Hiệp định Geneva 1954, đội ngũ các bộ ngoại giao đã không ngừng lớn mạnh thông qua các hoạt động tranh thủ dư luận quốc tế, hỗ trợ chiến trường chống “chiến tranh đặc biệt”, "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, góp phần đưa tới thắng lợi Tết Mậu Thân 1968, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, xuống thang chiến tranh, đi vào đàm phán, kết thúc chiến tranh bằng một giải pháp chính trị.
Cuộc đàm phán Paris trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn một bắt đầu từ ngày 13/5/1968 đến 31/10/1968, ta đấu tranh buộc Mỹ phải chấp nhận chấm dứt mọi hành động chiến tranh chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ ngày 31/10/1968; chấp nhận việc triệu tập hội nghị về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam gồm 4 bên với sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Giai đoạn hai từ ngày 25/1/1969 đến giữa năm 1972, ta kiên quyết đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội và vũ khí ra khỏi miền Nam Việt Nam, xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh nhưng đòi miền Bắc và Mỹ cùng rút quân, đòi duy trì khu phi quân sự và duy trì chính quyền Sài Gòn.
Giai đoạn cuối cùng từ tháng 7/1972 khi Mỹ buộc phải quay lại bàn đàm phán sau các thất bại ở cả hai miền Nam Bắc. Tuy vậy, Mỹ vẫn nuôi hy vọng đạt được một thỏa thuận trên thế mạnh. Cuối tháng 12/1972, khi con át chủ bài cuối cùng của Mỹ - dùng B52 đánh phá hủy diệt Hà Nội và các thành phố lớn của miền Bắc - đã bị quân và dân ta đánh gục trong chiến thắng vang dội "Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không", Mỹ mới chấp nhận ký Hiệp định.
Hiệp định Paris có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng, thống nhất đất nước của dân tộc ta. Hiệp định là văn bản pháp lý toàn diện, đầy đủ nhất công nhận các quyền cơ bản của dân tộc ta, trong đó Mỹ buộc phải cam kết “tôn trọng độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam”.Hội nghị Paris và Hiệp định Paris đã góp phần quan trọng vào nỗ lực tạo nên bước chuyển chiến lược của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, từng bước buộc Mỹ phải đi vào giải pháp, chấm dứt ném bom miền Bắc, rút toàn bộ quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, hoàn thành mục tiêu chiến lược “đánh cho Mỹ cút”.
Với việc buộc Mỹ phải rút hết trong khi ta duy trì được hoàn toàn lực lượng, Hiệp định mở ra một cục diện mới, so sánh lực lượng trên chiến trường nghiêng hẳn về ta để tiến lên “đánh cho nguỵ nhào”. Hiệp định Paris còn góp phần ngăn chặn mọi âm mưu can thiệp trở lại của Mỹ khi toàn quân, toàn dân ta tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 với đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Vượt lên trên mọi ý nghĩa thông thường, Hội nghị Paris và Hiệp định Paris là niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới, củng cố niềm tin của nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới vào sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của mình.
Cũng chính vì vậy, Hội nghị Paris và Hiệp định Paris đã góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình và công lý, là di sản vĩ đại của phong trào giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị và can thiệp của nước ngoài.
Hội nghị Paris để lại những bài học vô cùng quý giá. Bài học thứ nhất và quan trọng nhất là tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng. Đây là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Trong suốt quá trình đàm phán, Bộ Chính trị đã luôn theo dõi và chỉ đạo sát sao cả về chiến lược và sách lược đối với hai đoàn đàm phán để đi đến thắng lợi cuối cùng.Thứ hai, giữ vững độc lập, tự chủ, coi đây là nguyên tắc quan trọng nhất trong xử lý các vấn đề đối ngoại. Hội nghị Paris một lần nữa khẳng định rằng, chỉ có giữ vững độc lập, tự chủ trong quyết định chiến lược, sách lược, ta mới có thể chủ động tiến công, chủ động tạo thời cơ và tranh thủ thời cơ để bảo vệ lợi ích dân tộc.
Thứ ba, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành, các cấp, các lĩnh vực là nhân tố quyết định đảm bảo thắng lợi. Trong suốt quá trình đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Paris, sự phối hợp nhịp nhàng giữa ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, giữa "đánh" và "đàm", giữa các binh chủng hợp thành thế trận chiến tranh nhân dân, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Ngay tại Paris, sự phối hợp chặt chẽ và thực hiện phương châm "tuy hai mà một, tuy một mà hai" của hai đoàn đàm phán dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng ta cũng là nhân tố hết sức quan trọng để đi đến thắng lợi.
Thứ tư, chủ động, sáng tạo là phương cách đảm bảo thắng lợi trong đấu tranh ngoại giao. Ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước mà đỉnh cao là Hội nghị Paris thực sự đã trở thành một mặt trận chiến lược, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp của dân tộc. Trong suốt quá trình đàm phán tại Paris, mặt trận ngoại giao đã chủ động tiến công, đồng thời tận dụng tối đa các thế mạnh đặc thù của mình để giành thắng lợi.
Thứ năm, Hội nghị Paris là bài học tiêu biểu về kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại. Trong suốt quá trình đàm phán tại Paris, chúng ta đã có được sự ủng hộ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình của dư luận quốc tế, kể cả dư luận tiến bộ Mỹ, góp phần tạo nên một mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn ủng hộ Việt Nam.
Kỷ niệm thắng lợi oanh liệt của Hội nghị Paris là dịp để chúng ta bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến những người con của Tổ quốc đã chiến đấu quên mình vì độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Sự hy sinh và công ơn to lớn ấy sẽ mãi mãi là tấm gương sáng cho lớp lớp thế hệ người Việt Nam nói chung và cán bộ ngành ngoại giao nói riêng, hôm nay và mai sau.
Đây cũng là dịp để chúng ta bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các bạn bè quốc tế khắp năm châu, trước hết là nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, đã kề vai sát cánh với nhân Việt Nam trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sự ủng hộ của bạn bè quốc tế không chỉ là niềm cổ vũ lớn lao đối với nhân dân ta mà còn góp phần quan trọng vào việc nâng cao thế và lực của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống xâm lược Mỹ.
Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của ngoại giao thời kỳ chống Mỹ cứu nước, ngoại giao thời kỳ hội nhập quốc tế và phát triển đất nước tiếp tục là một “mặt trận”, trong đó các cán bộ ngoại giao là những "người lính", không ngừng phấn đấu góp phần tích cực đưa đất nước vào vị thế có lợi nhất trong nền chính trị, nền kinh tế và văn hóa khu vực và toàn cầu.
Với thế và lực sau hơn 25 năm Đổi mới, trong bối cảnh mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã chỉ rõ: "Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới"[4] . Quán triệt sâu sắc nhiệm vụ đối ngoại và vận dụng các bài học lịch sử của Hội nghị Paris, ngành ngoại giao tiếp tục nỗ lực vượt bậc trong các hướng cụ thể sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, tuyệt đối tin tưởng vào con đường cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, vững vàng bản lĩnh chính trị, kiên định đường lối đối ngoại "độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ"; nỗ lực quên mình vì lợi ích quốc gia dân tộc vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.
Thứ hai, phát huy truyền thống chủ động, sáng tạo trong đối ngoại, đề xuất nhiều sáng kiến thiết thực để nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại trong quan hệ với các đối tác và trên các diễn đàn, tổ chức quốc tế; tăng cường công tác nghiên cứu dự báo, phát hiện thời cơ và kiến nghị các biện pháp tận dụng thời cơ, lường trước các thách thức và kiến nghị các biện pháp hóa giải hoặc giảm thiểu các thách thức đối với phát triển và an ninh của đất nước.
Thứ ba, hợp đồng chặt chẽ giữa ngoại giao với kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh.... phối hợp nhịp nhàng với đối ngoại Đảng, ngoại giao nhân dân dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp của đất nước, kết hợp thành công sức mạnh của đất nước với sức mạnh của thời đại, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đối ngoại được Đảng giao phó.
Thứ tư, không ngừng học tập rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ ngoại ngữ và kiến thức mọi mặt, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao có trình độ và năng lực ngang tầm với các nước trong khu vực; đáp ứng yêu cầu triển khai thành công định hướng "triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt động đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế" của đường lối đối ngoại Đại hội XI.
Kỷ niệm 40 năm ngày Hiệp định Paris được ký kết, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với sự hy sinh của biết bao đồng bào và chiến sỹ cả nước, biết ơn Đảng và Bác Hồ vĩ đại, tri ân các thế hệ cha, anh đã trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh ngoại giao ở Paris, tri ân các bạn bè quốc tế đã nhiệt tình ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ôn lại các ý nghĩa trọng đại và bài học sâu sắc của Hội nghị Paris, chúng ta thêm vững tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, quyết tâm phát huy tinh thần Hội nghị Paris, vận dụng sáng tạo các bài học của Hội nghị trong bối cảnh tình hình và nhiệm vụ mới, quyết tâm góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.Ghi chú:
[1] Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002), trang 199.
[2] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 1954-1975, tập II (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995), trang 306.[3] Nguyễn Đình Bin (chủ biên), Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000 (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002), trang 217.
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2011), trang 236.Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất