'The Cup Of Life': Chiếc cúp thay đổi cuộc đời Ricky Martin

03/07/2014 14:00 GMT+7 | Âm nhạc

(giaidauscholar.com) - Bài hát bóng đá nhạt nhòa hôm khai mạc World Cup 2014 Brazil càng khiến người hâm mộ nhớ nôn nao những bài ca Mundial bất hủ, The Cup Of Life là một trong số ấy (cùng với Un’estate Italiana, Mùa hè nước Ý).

Ngày 24/2/1999 khi Ricky Martin khuấy động Nhà hát Shrine (Los Angeles) trong đêm trao giải Grammy với ca khúc The Cup Of Life. Để có được giây phút ấy, Ricky Martin đã phải chuẩn bị cả năm trời.  

Go, go, go, ale ale ale

The Cup Of Life là ca khúc chính thức của vòng chung kết bóng đá thế giới France ‘98. Đây được xem là một trong 10 ca khúc hay nhất của các kỳ World Cup và là ca khúc World Cup được nhớ nhiều nhất do tiết tấu cực kỳ sôi động, giai điệu cuốn hút và dễ nhớ. The Cup Of Life đã mở ra diện mạo mới và tạo cảm hứng cho nhiều ca khúc World Cup sau này khi nhấn mạnh phần tiết tấu với ngôn ngữ dễ hiểu và hiện đại. The Cup Of Life tạo ra một chuẩn mực mới phi biên giới và không quá quan trọng cho tính truyền thống vùng miền và điều này tạo đà cho một loạt sáng tác sau này của các kỳ World Cup.

Năm 1998, chàng ca sĩ người Puerto Rico vẫn đang ngụp lặn trong sự nghiệp âm nhạc chưa tới đâu. Thị trường âm nhạc Latin vốn rộng lớn nhưng anh chưa để lại nhiều dấu ấn. Một ngày Ricky Martin nhận được lời mời từ FIFA đặt hàng ca khúc chính thức cho kỳ World Cup sắp được tổ chức tại Pháp. Cơ hội ngàn vàng và Ricky Martin không bỏ lỡ. Anh lập tức cùng những người bạn bàn bạc để cho ra đời một ca khúc “có thể kết nối và bùng nổ mọi người”. Thời điểm ấy, phong trào nhạc Latin đang bắt đầu lớn mạnh và được đẩy thành một xu thế chính trong dòng chảy âm nhạc đại chúng Mỹ. Ricky Martin cùng hai người bạn, K.C. Porter và Draco Rosa, quyết định lấy Latin làm chủ đạo nhưng không quá “nặng” về Latin mà mềm mại kiểu pop để ai cũng có thể yêu thích ngay từ lần nghe đầu tiên. Cuối cùng bộ ba hoàn thành bài hát với tên gọi La Copa De La Vida (Chiếc cúp cuộc đời), phần hòa âm được giao cho nhà sản xuất cực kỳ nổi tiếng, Desmond Child.


Nhạc sĩ Desmond Child đã rất thích thú với phần giai điệu bài hát, ông làm thêm phần beat lấy từ âm hưởng Latin với những trống rộn ràng, phần bè điện tử với dàn kèn xuyên suốt. Ricky Martin cảm nhận đây sẽ là một bài hát ăn khách và anh quyết định đưa ca khúc này vào album sắp phát hành mang tên Vuelve.

Tháng 2/1998, album Vuelve được phát hành và đến ngày 3/3 ca khúc La Copa De La Vida lần đầu tiên ra mắt dưới dạng đĩa đơn. Ngay lập tức, đúng như dự đoán, ca khúc này càn quét hầu hết các bảng xếp hạng uy tín nhất. Chỉ một thời gian ngắn, Ricky Martin được cả thế giới đón nhận. Ricky “bồi” tiếp bằng phiên bản tiếng Anh có tựa đề The Cup Of Life và lúc ấy, như sau này Ricky Martin kể lại “tôi không còn đủ thời gian để trả lời phỏng vấn”. Khắp nơi trên thế giới, ở bất cứ đâu, từ Mumbai đến Sài Gòn, từ Roma đến Jamaica… bất cứ đứa trẻ nào cũng hò reo “Go, go, go, ale, ale, ale”. Ricky đã trở thành ca sĩ toàn cầu. 15 triệu bản album bán hết veo. Thời điểm đó nhạc số chưa thịnh nhưng tại Mỹ vẫn bán được 141 nghìn bản. Tháng 4/1998, MV ca khúc này chính thức lên sóng (MTV gần như phát vài lần mỗi ngày và suốt 24h trong ngày không lúc nào thiếu tin tức về Ricky Martin) và có lẽ Ricky Martin là ca sĩ hát nhạc World Cup duy nhất có cả một lộ trình quảng bá hiệu quả nhất mọi thời.  

Đỉnh cao của thành công là ngày 2/7/1998, trước trận chung kết Pháp và Brazil, 1,4 tỷ người từ 178 quốc gia đã xem Ricky Martin biểu diễn ca khúc này trên sân Stade de France. Các báo ra ngày hôm sau đều gọi đó là “khoảnh khắc tự hào nhất của thế giới Latin”, “cả Trái đất điên cuồng với Latin”... Cho dù người Brazil thua trận chung kết nhưng The Cup Of Life vẫn là một chiến thắng vẻ vang. Từ bên kia Đại Tây Dương, những ông chủ quyền lực của làng nhạc Mỹ đã thấy được một ngôi sao mới trên bầu trời.

Năm ấy Ricky Martin 27 tuổi, và The Cup Of Life là ca khúc tiếng Anh đầu tiên mà anh phát hành.

Ngã rẽ mới

The Cup Of Life đã trở thành chiếc vé đưa Ricky Martin bước sang ngã rẽ mới mà đỉnh cao là được mời biểu diễn trong đêm Grammy lần thứ 41 và cũng trong ngay đêm ấy anh đã nhận giải Grammy đầu tiên của mình. Tạp chí New York ví von Ricky như một chiếc bánh hamburger mà ai cũng thèm thuồng. Tờ Entertainment Weekly “gói” anh trong 3 chữ: Điên dại, sexy và cám dỗ. Ricky thành một ngôi sao mới của nước Mỹ và được đàn ông lẫn đàn bà mê đắm. Hãng Columbia hốt bạc.

Và lúc đó người ta mới lần giở lại cuộc đời của chàng trai này. Hóa ra cậu ta đã từng làm diễn viên từ năm 8 tuổi, 12 tuổi chuyển sang đi hát cho nhóm Menudo. Vẫn biết thành công là một chặng đường dài vươn tới nhưng suốt 15 năm trời, con đường âm nhạc của Ricky Martin vẫn không đổi được vận, vẫn là những chuyến đi xa nhà tít tắp, hát và nhảy, nhảy và hát và lắm lúc Ricky muốn bỏ nghề để học tin học nhưng mẹ anh vẫn khuyến khích con mình đi theo nghệ thuật. Từ Puerto Rico, Ricky chia tay Menudo để đến New York theo nghề nhạc kịch và đóng phim truyền hình nhưng cuối cùng cũng chẳng đến đâu…

 Ricky Martin đã cố gắng “cầm hơi” đến năm 1998 thì sự nghiệp của anh “rơi” vào thời điểm huy hoàng nhất. Nói một cách công bằng, The Cup Of Life đã trở thành bệ phóng đưa Ricky Martin lên tầm toàn cầu nhưng những ca sĩ thành công sau một đêm không bao giờ đi xa được. Sự may mắn của Ricky còn nằm ở chỗ thị trường nhạc Latin lúc đó đang bắt đầu vào cao trào và anh được gọi tên cho danh sách mở đường, lấn từ Latin sang pop, trên thị trường chính thống. The Cup Of Life đã đưa ra ý tưởng về một nghệ sĩ Latin-pop và sau đó là một cuộc chạy đua để đẩy xu hướng này vươn ra mạnh hơn. Từ 1998 trở đi, công chúng của Latin-pop mọc như nấm, doanh thu tăng vọt (trong năm 1998 thu về hơn nửa tỷ USD)  

Suốt 15 năm đằng đẵng quần quật với âm nhạc, Ricky Martin thừa hiểu mình phải nắm bắt cơ hội và cố gắng như thế nào. The Cup Of Life mãi mãi là thành công quan trọng nhất trong sự nghiệp của Ricky.


Nguyên Minh
Thể thao & Văn hóa Cuối tuần

Cùng chuyên mục
Xem theo ngày
Đọc thêm