05/08/2021 07:11 GMT+7 | Văn hoá
(giaidauscholar.com) - Đỗ Quang Em là cây cọ tả thực tiêu biểu của mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Ông sinh 1942 tại Ninh Thuận, qua đời tối 3/8 tại TP.HCM, vì bệnh tuổi già. Không phải là người đầu tiên của Việt Nam vẽ theo khuynh hướng tả thực/ cực thực, nhưng có lẽ ông thuộc vài người đầu tiên thành công nhất với khả năng này.
Sinh thời, khi Thể thao và Văn hóa (TTXVN) hỏi quan niệm thế nào về tranh nghệ thuật và tranh thị trường, Đỗ Quang Em trả lời: “Thực sự tôi không biết, vì suốt đời tôi chỉ vẽ có một kiểu như vậy”. Kiểu vẽ của ông, nói như nhà phê bình mỹ thuật Huỳnh Hữu Ủy là tân hiện thực (neo-realism), có người nói ông là cực thực (hyper-realism), hoặc hiện thực ảnh (photorealism). Còn với Đỗ Quang Em thì: “Các tác phẩm của tôi là hiện thực, nhưng không phải là nhiếp ảnh”.
Một số phận đặc biệt
Nếu xem lại nhiếp ảnh buổi đầu của Việt Nam, đặc biệt là ảnh chân dung, có thể thấy rằng Đỗ Quang Em chịu nhiều ảnh hưởng về bố cục, sáng tối. Điều này cũng dễ hiểu, vì từ 8 tuổi ông đã phụ gia đình làm nhiếp ảnh ở Ninh Thuận, trải qua hầu hết các công đoạn. Nhiếp ảnh thời bấy giờ còn khá thô sơ, việc chụp và tráng rửa rất công phu, nặng nhọc, nên ấn tượng nghề nghiệp sẽ lưu dấu lâu dài.
Tuy nhiên, nếu nói Đỗ Quang Em vẽ như nhiếp ảnh thì không phải, vì hiển nhiên rồi, mỗi thể loại có một kỹ thuật tạo hình riêng. Họa sĩ Võ Đình nhận định: “Đỗ Quang Em vẽ ra thật tỉ mỉ, thật “thật”, nhưng sự thật này không đánh lừa ta, không quyến rũ ta vì cái đặc dị của đề tài, cái tài tình của kỹ thuật, cái tinh vi của bút pháp. Họa phẩm thu hút ta vì một sự có mặt tự tại. Một sự có mặt màu nhiệm”.
Năm 17 tuổi, Đỗ Quang Em thi vào Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn, dưới thời của vị giám đốc đầu tiên là họa sĩ Lê Văn Đệ. Ông học từ 1959 đến 1965, với giáo trình cũng tương tự École des beaux-arts de Paris, đó là phong cảnh, khỏa thân, giải phẫu, cũng như các bài tập vật liệu, chất liệu… Nhưng Đỗ Quang Em chuyên tâm nhiều hơn về mảng chân dung và tĩnh vật, nghiên cứu sâu cách vẽ từ cổ điển đến chủ nghĩa hiện thực (realism) ở châu Âu.
Sau hai năm ra trường mà chưa định hình cách vẽ, cha mẹ thì gặp khó khăn nhất thời, nên Đỗ Quang Em sống vất vả. Ông tồn tại bằng vẽ tranh bờ hồ, giúp học sinh luyện thi, giúp sinh viên mỹ thuật - kiến trúc làm bài tập về nhà…
Đỗ Quang Em dành dụm được ít tiền, mua chiếc ghe chèo cũ, bỏ lên đó 20 bức tranh và muốn bí mật chèo đến Paris. Ông nói rằng mình muốn tìm cơ hội sáng tạo, 20 bức tranh bán sẽ đủ ổn định trong vài năm đầu để xâm nhập vào môi trường nghệ thuật ở Pháp. Nhưng mới ra khỏi cửa biển vài chục hải lý, sau bảy ngày lênh đênh, gặp gió to và sóng lớn, ông bị rơi xuống biển, ghe và tranh trôi mất. Rất may ông được Hạm đội 7 của hải quân Mỹ - trên đường từ lãnh thổ Hong Kong đến Singapore - vớt lên và thả về đảo Côn Sơn. Sau đó, bị giải về Sài Gòn và nhốt hơn một tháng, ra tòa, ông tự biện hộ mình vô tội, rằng chỉ muốn đi tìm cảm hứng sáng tác, nhưng gặp bão cuốn, chứ ghe chèo thì sao qua nước ngoài cho được. Ông trắng án và được tự do, với điều kiện phải nhập ngũ; trong thời gian nhà binh, ông đào ngũ ba lần, cả ba lần đều bị bắt vào tù.
Năm 1968, vẫn trong thời gian nhà binh, cha mẹ ở nhà sắp đặt hôn nhân cho ông với một cô dâu chưa từng gặp mặt. Nhưng rồi họ sớm nên vợ chồng thật sự, đến năm 1975 thì đã có ba gái một trai, cả gia đình sống phiêu dạt theo kiểu nhà binh kết hợp với họa sĩ.
Đó cũng là cuộc hôn nhân đầu tiên và duy nhất của Đỗ Quang Em, họ đã sống với nhau đến ngày qua đời. Phần lớn các chân dung là Đỗ Quang Em vẽ vợ, các con và chỉ một ít người quen thân nhờ vẽ.
Từ năm 1980, ông sống tại TP.HCM tới cuối đời. Năm 1981, Hội Mỹ thuật Việt Nam đã mời ông tham gia triển lãm, rồi kết nạp thành hội viên.
Một điển hình của phương pháp sáng tối
Nhà phê bình mỹ thuật Terence Rodrigues (từng dạy Đại học Oxford, từng là giám đốc của Christie's) viết: “Đỗ Quang Em là một trong số ít họa sĩ Việt Nam vẽ được những bức chân dung ba chiều thuyết phục theo phong cách châu Âu, ông luôn cho ánh sáng và bóng râm truyền tải chiều sâu. Hầu hết các họa sĩ tạo hình Việt Nam có xu hướng vẽ các nhân vật theo lối cách điệu hoàn toàn, hoặc theo lối phẳng, hoặc theo truyền thống hội họa Trung Quốc. Đỗ Quang Em thì không”.
Phong cách mà Terence Rodrigues đề cập chính là chiaroscuro (sáng tối) từ cách vẽ sơn dầu nhiều lớp, vốn thường thấy trong hội họa cổ điển châu Âu. Trong một bài viết về chiaroscuro, họa sĩ Nguyễn Đình Đăng phân tích: “Kỹ thuật chiaroscuro (trong đó chiaro là sáng, oscuro, hoặc scuro là tối - tiếng Ý) là kỹ thuật nền tảng giúp tạo ra trên một bề mặt hai chiều ảo giác nổi về hình khối do ánh sáng phản xạ trên người, vật, nhằm mô phỏng các hiệu ứng mắt người nhìn thấy trong không gian thực ba chiều”.
“Sự thành thạo đến từ việc đào tạo nghiêm ngặt mà ông ấy nhận được tại trường mỹ thuật, cũng như nhiều năm nỗ lực tỉ mỉ, mỗi ngày ông vẽ ba tiếng vào buổi sáng và ba tiếng rưỡi vào buổi chiều. Nghệ thuật của ông là sự chăm chỉ, không khác gì tác phẩm của các họa sĩ bậc thầy cũ của châu Âu. Ông luôn vẽ về đời thường, thường dành nhiều thời gian để định vị các đồ vật và bố cục, đánh dấu vị trí chính xác trên sàn nhà bằng băng keo và sử dụng đèn chiếu mạnh để tạo ra các chiaroscuro sắc nét” - Terence Rodrigues phân tích.
Chính phương pháp vẽ sáng tối - vốn được truyền cảm hứng từ họa sĩ Caravaggio (1571-1610) mà Đỗ Quang Em thần tượng - đã làm cho tranh ông sớm được các nhà sưu tập châu Âu ưa thích. Thời kỳ Đổi mới (từ 1986), khi các sứ quán, giới ngoại giao và thương mại đến Việt Nam nhiều hơn, tranh của Đỗ Quang Em đã thu hút được họ.
Ngày 29/11/1994, báo The New York Times đưa tin về bức Tôi và vợ tôi (vẽ năm 1989) đã bán tại Mỹ với giá là 70.000 USD. Hiện nay, trên thị trường, nhiều tác phẩm của Đỗ Quang Em đã có giá từ 100.000 đến 200.000 USD, nên tương lai tiền triệu là điều có thể hình dung ra được. |
Văn Bảy
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất