27/12/2021 07:00 GMT+7 | Văn hoá
(giaidauscholar.com) - Tin nhà thơ Trúc Thông qua đời đầu giờ sáng 26/12/2021 được lan truyền trên mạng với chia sẻ khá xúc động của nhiều nhà văn, cho thấy sự ra đi của ông đã để lại nhiều tiếc thương trong lòng đồng nghiệp.
Năm nay, nhà thơ Trúc Thông 82 tuổi. Sau một thời gian lâm bệnh nặng, trải qua hai lần bị tai biến mạch máu não trong vòng chục năm trở lại đây, ông phải sống trong sự chăm nom đặc biệt của vợ con. Đã gần một năm rồi, nhà thơ Trúc Thông không rời khỏi giường, ông ăn trên giường, uống trên giường, ngủ li bì trên giường. Sau 13 năm ông bị tai biến, người vợ hiền vẫn lặng lẽ, bền bỉ chăm sóc ông.
1. Trong cuộc đời văn chương của tôi, có 2 nhà thơ thuộc lớp nhà thơ trưởng thành trong chiến tranh đã trở thành người bạn tri âm khá thân thiết trong thi ca với tôi là Bế Kiến Quốc và Trúc Thông. Cách đây gần 30 năm, ngôi nhà của gia đình nhà thơ Trúc Thông ở phố Hồng Phúc là nơi các nhà thơ thế hệ chúng tôi thường xuyên ghé qua, với những cuộc đàm đạo thi ca theo hướng đổi mới thơ đương đại.
Trong số các nhà thơ thuộc thế hệ những năm 70 của thế kỷ trước, có lẽ đến hôm nay, Trúc Thông là một trong số ít các nhà thơ của thời “cận đại” còn đối thoại được với những tìm tòi - cách tân của các cây bút trẻ “đương đại”. Vốn là một nhà thơ từ xưa đến giờ luôn nổi tiếng vì sự khắt khe, đòi hỏi ở chính mình cũng như những người làm thơ khác (nhất là những cây bút trẻ) một nỗ lực mới cho nền thơ đương đại của chúng ta, Trúc Thông và thơ của ông dường như không bao giờ chịu cũ, không khi nào chịu già, không bao giờ chịu dừng lại và thôi tìm tòi, thể nghiệm. Những người viết trẻ thường tìm đến với ông như một tấm gương của sự tận tụy phụng sự thi ca như một tôn giáo.
Gần gũi với nhau, tôi mới biết, tuy là một người rất khe khắt, đòi hỏi thơ phải luôn mang lại cái mới và không được nhàm cũ, nhưng Trúc Thông không phải là một người giáo điều trong thi ca. Trong tập thơ đầu tay của tôi Mưa lúc không giờ in năm 1992 (tại NXB Hội Nhà văn) có một bài thơ tôi viết tặng Trúc Thông với tứ thơ “Những cỗ xe” như sau:
Những cỗ xe đi qua thế giới
Chở tình yêu và chiến tranh
Trên những bánh tròn
Chở sách và thực phẩm cho chúng ta
Trên những bánh tròn
Còn anh chuyển thơ của mình đến với mọi người
Trên chiếc bánh vuông
Qua vòng lăn đầy cạnh góc
Từ xứ sở nươc mắt
Tới cánh đồng hoa
Con đường thi ca
Những chiếc bánh vuông gồ ghề
Lăn đi cùng anh
Qua chân trời của nỗi đớn đau
Cùng niềm thông cảm
Trên con đường khó nhọc
Đi tới ngày mai
Qua bài thơ này, tôi muốn nói về hành trình đổi mới thi ca cách đây 30 năm là con đường rất khó khăn đòi hỏi sự sáng tạo không biết mệt mỏi của mỗi một người thơ giàu ý chí như Trúc Thông và thế hệ chúng tôi.
Thật thú vị, sau đó, trong bài viết về tập thơ Mưa lúc không giờ của tôi đăng trên báo Văn nghệ, nhà thơ Trúc Thông đã hóm hỉnh nhận xét: “Trước một bầu nhiệt năng thơ luôn luôn táp vào người nghe và đọc, với một nghệ thuật đã vào loại chững chạc khoác áo thi đấu như Nguyễn Việt Chiến, mình cần chìm xuống, dương cao tai, lim dim như một con sói! Khỏi phải nói “sung sức”, “năng động” với một người sản xuất trên 20 năm nay hàng chục trường ca mỗi cái vài trăm câu, còn hàng vài ki-lô thơ ngắn các loại thể. Chỉ mong muốn được Nguyễn Việt Chiến “nện” những cú thơ đổi mới với chính anh, theo kiểu của anh. Để bạn đọc thơ buộc phải “nhớ đời”…”.
Có thể nói, với nhiều nhà thơ trẻ thuộc thế hệ sau 1975, Trúc Thông thường đọc thơ họ khá kỹ và có những nhận xét khá chí tình và thâu đáo như vậy.
Qua những tập thơ đã in của Trúc Thông, tôi cho rằng trong mỗi bài thơ của mình, ông đều cố gắng đưa vào một nén kiến trúc mới, hoặc một phát hiện mới, hoặc một ý tưởng mới… khiến chúng ta đôi khi phải kiểm tra lại các giác độ “thưởng ngoạn” thơ hiện đại của chính mình. Bởi dường như ở dưới tầng ngôn ngữ, câu chữ hạn hẹp ấy có một dòng chảy đời sống đang nhắc nhở chúng ta về nỗi đau của cuộc chiến tranh khốc liệt đã đi qua và những lo âu, trăn trở trong đời sống con người hôm nay.
Lễ viếng nhà thơ Trúc Thông vào hồi 15h ngày 26/12/2021 tại số nhà 25 ngõ 226 đường Cầu Giấy, Hà Nội. Lễ truy điệu và đưa tang vào hồi 8h15 ngày 27/12/2021. Hỏa táng tại Đài hóa thân Hoàn Vũ - Văn Điển. An táng tại quê nhà: Bình Lục, Hà Nam. |
2. Thơ của Trúc Thông không phải là thứ thơ để ngâm nga, diệu vợi mà là thứ thơ phải đọc bằng mắt, bằng văn bản, bằng sự trải nghiệm của con người trước nỗi đau: “Các em đã lớn ở Đông Hà/ chắc chắn trong vòng tay hạnh phúc/ ai vừa khen con gái Quảng Trị da trắng tóc dài/ anh nhớ mùa hè 1972/ O giao liên cụt tay dẫn anh đi/ da xạm/ anh nhớ đêm rất đen/ bỗng hở chân trời/ tràn đổ lân tinh… rền rền bom nổ/ khi ấy vượt sông Thạch Hãn trở về/ mấy người lính vùi vào giấc ngủ/ rất dịu dàng đằm thắm các em/ nhưng mà anh vẫn nhớ…”.
Bài thơ trên như một đoạn phim quay chậm và diện mạo đời sống hàng ngày cứ đi vào thơ ông một cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, không cần vẽ vời bằng một thứ cảm xúc khác. Và phải chăng, khi tìm tòi - cách tân đến tận cùng thì thơ đương đại lại trở về với sự giản dị, hàm súc vốn là một trong những giá trị muôn đời của thi ca.
Là một nhà thơ kiệm lời, đôi lúc hơi cực đoan, ta thấy Trúc Thông muốn từng con chữ phải chở được một ý tưởng, một thông tin thơ nào đó đã được mã hóa bằng cảm xúc, bằng ấn tượng như kiểu những câu thơ sau: “Nhà thơ ơi/ dịu dàng ngọn gió/ anh đi qua những bức tường/người ta nhìn rõ bóng anh qua/ ôi áo ngực gày/ máu rỏ vài ba chữ/ và người ta điên cuồng đuổi theo/ tận thẳm cùng bóng tối/ xa, xa mãi/ trăng trắng mười lăm dòng”. Rồi: “Ngựa chưa hý lên tiên tri mới/ Còn quẩn quanh gậm cỏ hoàng hôn/ Thị trấn đã đi qua cơn đói/ Những bán buôn vụn vặt/ Năm xu/ Một hào/ Những gì mất/ Sẽ trồi lên/ Cho đến cả mối tình đã chết”.
Diện mạo đời sống hàng ngày đi vào thơ Trúc Thông một cách tự nhiên như nó vốn tồn tại, không cần vẽ vời bằng một thứ cảm xúc khác: “Quê hương như ghè rượu/ ta say/Quê hương nhìn bằng mắt các em/ còn trong áo rách”. Hay: “Phận hèn/ cắp thúng/ “bánh mỳ đây…”/ trong đoàn ca dao hoa hậu xưa/ đây là câu bị gạt ra lề/ vì phận thấp”.
Tôi còn nhớ, sau lần Trúc Thông bị tai biến mạch máu não lần thứ nhất, khi tôi đến thăm ông, Trúc Thông chỉ cười lặng lẽ nhìn tôi, không nói được gì vì di chứng của tai biến làm méo giọng. Nhưng không hiểu sao lúc ấy, tôi thấy trên gương mặt đau yếu của ông, vẫn ánh lên tia nhìn của một hồn thơ khỏe khoắn, không chịu đầu hàng tuổi già và bệnh tật và quả thật, ông đã cầm cự được hơn chục năm.
Và, tôi bất giác nhớ tới bài thơ lục bát rất nổi tiếng Bờ sông vẫn gió viết tặng mẹ của ông: “Lá ngô lay ở bờ sông/ Bờ sông vẫn gió người không thấy về/ Xin người hãy trở về quê/ Một lần cuối… một lần về cuối thôi/ Về thương lại bến sông trôi/ Về buồn lại đã một thời tóc xanh/ Lệ xin giọt cuối để dành/ Trên phần mộ mẹ nương hình bóng cha/ Cây cau cũ, giại hiên nhà/ Còn nghe gió thoảng sông xa một lần/ Con xin ngắn lại đường gần/ Một lần… rồi mẹ hãy dần dần đi”.
Và, đến hôm nay, khi phải giã biệt cuộc đời này để trở về với mẹ, nhà thơ Trúc Thông vẫn như đứng trên bờ sông vẫn gió của thi ca với những bài thơ còn đọng lại trong tâm hồn hàng triệu người đọc.
Trúc Thông - tác giả bài thơ “Cao Bằng” trong SGK Nhà thơ Trúc Thông (tên thật là Đào Mạnh Thông) quê Hà Nam. Tốt nghiệp Khoa Văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông về công tác tại Ban Văn nghệ, Đài Tiếng nói Việt Nam cho đến lúc nghỉ hưu. Bài thơ Cao Bằng trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 (tập 2) là một trong những bài thơ nổi tiếng của ông. “Cao Bằng, rõ thật cao! … Đã dâng đến tận cùng (Trích Cao Bằng) Ông được trao nhiều giải thưởng văn học: Giải thưởng Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội 1990 - 1995, Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2000, Giải B Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000; Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật 2016. |
Nguyễn Việt Chiến
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất